Đến hết tháng 9, hơn 22 tỷ USD vốn đầu tư từ các tập đoàn lớn của châu Âu đã rót vào Việt Nam, tăng gần nửa tỷ USD so với cùng kỳ dù chịu tác động của Covid-19.
Trong báo cáo Chính phủ vừa gửi Quốc hội cho thấy, trao đổi thương mại, vốn đầu tư trực tiếp từ các quốc gia thuộc liên minh châu Âu (EU) rót vào Việt Nam tăng mạnh sau khi Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) có hiệu lực từ 1/8/2020.
Theo đó, đến hết tháng 9, EU đã có 2.242 dự án của 26 trong số 27 nước thành viên rót vào Việt Nam, tăng 164 dự án so với cùng kỳ năm ngoái. Tổng vốn đăng ký số dự án này đạt 22,24 tỷ USD, tăng 483 triệu USD so với cùng kỳ 2020.
Hà Lan là quốc gia đứng đầu với 382 dự án, tổng vốn gần 10,4 tỷ USD (chiếm gần 46,5% vốn đầu tư EU vào Việt Nam). Pháp đứng thứ 2 với 3,62 tỷ USD, kế đến là Đức 2,25 tỷ USD.
Các tập đoàn lớn của EU đang hoạt động hiệu quả tại Việt Nam, như Shell Group (Hà Lan), Total Elf Fina (Pháp – Bỉ), Daimler Chrysler (Đức), Siemen, Alcatel Comvik (Thụy Điển)…
Chính phủ đánh giá, xu thế đầu tư của EU chủ yếu vẫn tập trung vào các ngành công nghiệp công nghệ cao, và gần đây đang chuyển dịch sang các ngành dịch vụ (bưu chính viễn thông, tài chính, văn phòng cho thuê, bán lẻ), năng lượng sạch, công nghiệp phụ trợ, chế biến thực phẩm, nông nghiệp công nghệ cao, dược phẩm…
Dòng vốn đầu tư trực tiếp FDI từ EU vào Việt Nam về trung và dài hạn được dự báo gia tăng đáng kể với nhiều dự án chất lượng có giá trị cao.
Để đón làn sóng đầu tư từ các quốc gia thành viên EU, nhiều địa phương đã chú trọng chuẩn bị quỹ đất sạch trong và ngoài khu công nghiệp, đầu tư cơ sở hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực, trong đó có nhân lực chất lượng cao, chủ yếu dưới các hình thức đào tạo nghề, tổ chức các khóa tập huấn nâng cao năng lực trong các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, logistics….
Ngoài ra, các địa phương cũng tập trung hoàn thiện và triển khai có hiệu quả cơ chế và chính sách khuyến khích đầu tư, đơn giản hóa thủ tục hành chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, khắc phục những vướng mắc, rào cản trong hoạt động đầu tư, kinh doanh.
Sòng bạc cá cược 588 : cado24.com
Trao đổi thương mại giữa Việt Nam và EU sau một năm thực thi EVFTA cũng có nhiều khởi sắc, bất chấp các khó khăn, trở ngại do Covid-19 gây ra. Sau hơn một năm thực thi EVFTA, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và EU đạt 54,6 tỷ USD, tăng gần 12% so với cùng kỳ. Trong đó Việt Nam xuất sang EU đạt 38,5 tỷ USD, và nhập khẩu 16,2 tỷ USD từ thị trường này.
Riêng 7 tháng đầu năm nay, kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và EU đạt 32,4 tỷ USD, tăng gần 18% so với cùng kỳ năm ngoái. Tính riêng xuất khẩu, kim ngạch đạt 22,81 tỷ USD, tăng 17% so với cùng kỳ.
Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang thị trường EU là điện thoại và linh kiện, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, giày dép các loại, hàng dệt, may, máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác, sắt thép và sản phẩm từ sắt thép.
Ở chiều ngược lại, nhập khẩu hàng hoá từ EU trong 7 tháng đầu năm đạt hơn 9,6 tỷ USD, tăng gần 19% so với cùng kỳ 2020. Việt Nam nhập khẩu chủ yếu từ EU các mặt hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử, máy móc thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác, dược phẩm, sản phẩm hóa chất… Một số mặt hàng nhập khẩu có mức tăng trưởng cao như sản phẩm hóa chất (33,6%), thức ăn gia súc và nguyên liệu (62%), nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày (41%), phương tiện vận tải khác và phụ tùng (44%), gỗ và sản phẩm gỗ (27%).
Dù vậy, Chính phủ đánh giá một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang EU như dệt may, cà phê, sản phẩm sắt thép… ghi nhận tỷ lệ cấp mẫu C/O EVFTA còn tương đối khiêm tốn. Số liệu 7 tháng đầu năm nay tỷ lệ cấp C/O đối với dệt may khoảng 15,7%, đối với cà phê và sắt thép khoảng 9%.
Ngoài ra, Việt Nam còn phải đối mặt với nhiều thách thức chủ quan từ nội tại doanh nghiệp và đặc thù thị trường.
Với lợi thế từ EVFTA nhưng Việt Nam hiện vẫn gặp một số khó khăn trong việc tiếp cận thị trường EU do chưa hoàn toàn đáp ứng các yêu cầu đặt ra từ các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật cao và khắt khe với mục đích là bảo vệ sức khoẻ con người, bảo vệ môi trường, phát triển bền vững…
Trong khi đó, xu hướng bảo hộ và áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại cùng các rào cản phi thuế quan từ EU ngày càng gia tăng. Đây vẫn là nút thắt lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần chú ý khi tiếp cận thị trường.
Cùng đó, một bộ phận doanh nghiệp còn khá thờ ơ, chưa thực sự chủ động trong việc tìm hiểu về EVFTA. Hiện các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ có năng lực cạnh tranh còn yếu, giá thành sản phẩm cao, chất lượng thấp so với tiêu chuẩn quốc tế… nên tiếp cận thị trường hạn chế. Số doanh nghiệp có sản phẩm, năng lực cạnh tranh được thì lại gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận các nguồn vốn để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh phục vụ mục tiêu tận dụng các FTA.
Về phía các địa phương, mức độ quan tâm, đánh giá đúng mức tác động của hội nhập, thực thi FTA còn hạn chế. Nhiều nơi chưa thực sự chủ động vào cuộc trong việc xây dựng định hướng, chiến lược tận dụng FTA cho các doanh nghiệp tại địa phương mình.
Ngoài ra, hiện mới có hơn một nửa tỉnh, thành có hoạt động xuất nhập khẩu với các nước EU, số còn lại vẫn tập trung vào các thị trường truyền thống…